Bút ký của Lê Thu

Từ thành phố Hà Giang lên Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn, là cung đường chỉ thấy núi cao, chỉ có vực sâu và không biết bao nhiêu những khúc cua hình chữ U ngược - xuôi chóng mặt, còn những đoạn dốc lên theo chữ Z thì cứ dài dằng dặc. Tận cùng là tuyến đường biên giới, giáp với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây của nước bạn Trung Quốc, cũng dài đến trên một trăm ki-lô-mét, có lúc nó leo lên những đỉnh núi cao ngất trời, rồi đột ngột lao xuống tận thung lũng hẹp sâu. Những con đường cũng nối qua lại với nhau bằng các cửa khẩu, và lối mở với cái tên anh em gần gũi: Nghĩa Thuận - Bát Bố, Bạch Đích - Dương Vạn, Phó Bảng - Đổng Cán và Săm Pun - Điền Bồng. Sức cuốn hút mạnh mẽ của vùng đất cao nguyên đá là những cung đường cheo leo, men theo vách đá đến địa đầu Tổ quốc, là những di sản địa chất vài trăm triệu năm tuổi, là những con người trong mỗi ngôi nhà ở bản trên, làng dưới, cùng biết bao những cây cỏ, chim muông, hoa lá…, đã có từ bao đời trên miền biên viễn.
Háo hức bởi những chuyện chưa biết, tò mò với cái tên thoạt nghe thì lạ lẫm, “Công viên địa chất toàn cầu UNESCO”, mà lại nằm trên “Cao nguyên đá Đồng Văn” thấy vừa quen, vừa lạ. Dù đó là một vùng đất, một địa danh hay, một cái tên, nhưng ai cũng muốn đến đó một lần, để tận mắt ngắm nhìn nơi địa đầu của đất nước Việt Nam. Được chạm đôi tay lên đỉnh non cao Lũng Cú linh thiêng và ngắm nhìn chàng trai Tổ quốc đang thảnh thơi xoải mình dài theo sông núi, mây trời, xuống tận biển của đất mũi Cà Mau. Theo tuyến đường Quốc lộ 4C từ thành phố Hà Giang ngược lên hướng Bắc, khi những phố xá dần thưa thớt, thì khúc sông Nậm Điêng trong xanh, như hồ nước nhỏ lặng lẽ hiện ra, dưới vách đá sát bên cạnh con đường. Lúc sông vừa ẩn mình vào hẻm núi cao, khu rừng Phong Quang rậm rạp, xanh rì lại mở ra trước mắt, cùng ánh nắng mặt trời chợt bừng lên rực rỡ. Cổng vào phía Nam của công viên bắt đầu từ chân dốc Bắc Sum, mà ngay từ xa ai cũng nhìn thấy hàng chữ lớn gắn trên lưng núi, “Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn”. Con đường nhựa mỏng mảnh như dải lụa dài, hờ hững bám từ chân, ngược dần lên sườn núi đá cheo leo, rồi lên mãi trời mây, hệt như nét vẽ nghịch ngợm của chàng trai khổng lồ, lên bức tranh thiên nhiên hoang dã. Khi lên đến đỉnh đèo, dưới chân dốc kia, ngôi làng lúc trước giờ chỉ bằng bàn tay xòe rộng, những mái nhà đỏ xanh, chỉ nhỉnh hơn nét gạch đầu dòng trong trang sách nhỏ. Dừng lại trên đỉnh Cổng Trời ai cũng thấy thân thể mình như bị loãng ra, hai bên tai như có đám ong rừng muốn vào làm tổ - cũng giống lúc ngồi trên tàu bay đang lơ lửng ở giữa không trung. Cổng Trời Quản Bạ nằm lọt giữa hai sườn núi, mà độ cao lên đến một nghìn năm năm mét - nổi trên mặt nước biển. Dù mới cuối hè, nhưng đám sương đêm trắng lạnh đã giăng khắp đỉnh đèo. Bỗng có tiếng sáo của ai da diết cất lên, hòa vào màn hơi sương huyền ảo, tiếng véo von trong trẻo như giọt nước tí tách nhỏ ra từ kẽ đá, êm ái như sợi bông trắng muốt, như lời thủ thỉ, tâm tình của chàng trai bản Mông đón bạn tình xuống chợ.
Từ trên đỉnh Cổng Trời Quản Bạ, trải mắt xuống phố núi Tam Sơn, theo những lưỡi gươm của thần mặt trời bắt đầu khua lên, xé toang những đám mây ương bướng, muốn giấu đi vẻ đẹp thần tiên dưới thung lũng diệu kỳ. Và những tia nắng của buổi bình minh cuối hạ - hồn nhiên như những đứa trẻ đến trường - nhảy ào xuống mặt hồ long lanh, đầy sắc màu huyền ảo. Chúng thỏa thê đắm mình trong thung lũng, nô đùa với đám lá trên ruộng lúa, vườn ngô, rì rào cùng đám hoa, cánh lá, chúng tràn vào phố núi, phủ lên khăn đội đầu của cô gái người Nùng, lên cháu bé người Dao, chúng cưỡi lên chiếc quẩy tấu trĩu nặng trên đôi vai của chàng trai Mông, làm liêu xiêu bóng nắng của bà cụ người Tày…, đi chợ phiên buổi sớm. Trong bức họa thần tiên ấy, cặp Núi Đôi tròn trịa của nàng tiên Hoa Đào, trong câu chuyện huyền thoại hiện ra, nhô lên cao xanh mướt. Dù đã bị bắt về trời, nhưng Nàng đã để lại dưới trần gian bộ ngực căng đầy sữa của mình, để nuôi đứa con thơ vắng mẹ. Chà, cảnh sắc mới tuyệt trần làm sao!. Tôi chợt thấy mình như đang trong xứ sở diệu kỳ, của cô gái Alice bé bỏng.
Cũng giống như lúc leo lên đỉnh dốc, đường dẫn xuống thị trấn vẫn ngoằn ngoèo, gấp khúc, một bên là màu xám của vách đá cao dựng đứng, còn bên kia là vực sâu hút mắt, nếu không có hàng lan can chạy dài như cánh tay của mẹ, che chắn cho đến hết con dốc, chắc hẳn nỗi sợ hãi của tôi sẽ hóa thành đôi cánh, bay ra khỏi con đường. Thị trấn Tam Sơn - mới chỉ nghe tên thôi, nhưng vô cùng vững chãi - nằm ở cuối con đèo. Dãy phố chính chạy dọc theo con đường quốc lộ, mà tiếng xe, tiếng còi cứ tấp nập lại qua. Những dãy nhà vừa xây, cao như chàng thanh niên mới lớn, với màu sơn ghi trắng, sọc vàng cam - mang dáng dấp của thành phố Hà Giang - đang chuyển mình sang kiến trúc hiện đại. Đúng vào ngày chợ phiên, những dãy phố quanh chợ nhộn nhịp tiếng nói cười. Chợ chính, từ giữa chợ, đến mọi góc, chỗ nào cũng đầy ứ những áo quần, chăn gối, chậu nồi, bát đĩa…, như dưới chợ Hà Giang. Chỉ khác màu áo váy, chiếc khăn đội đầu, hay những chiếc vòng bạc to của những người bán - mua đan xen nhau, trên tấm vải dệt thêu những sắc màu dọc, ngang chàm - đen - trắng - đỏ… Ngoài chợ, trên vỉa hè của con phố nhỏ, anh người Nùng kiên nhẫn ngồi sau địu rễ cây sâm cau đỏ của mình - vẻ chờ đợi. Cạnh đó là chị gái người Mông, đang mỉm cười chào bác người Tày nếm thử hớp rượu ngô Thanh Vân men lá, trong chiếc thìa bằng gỗ. Tôi tò mò khi thấy ống rượu bơ màu bạc, sóng sánh đầy, trong vắt, đang từ từ đổ vào chiếc gùi tre nâu bóng, cùng tiếng đếm đồng thanh “iz - đêu (một), aoz - xôông (hai), pêz - slam (ba)…”, cất lên chậm rãi và chắc nịch. Mùi rượu ngô nếp mới tỏa ra thơm lừng, tôi ước lượng “mình chứa nổi một bơ không nhỉ?”. Sang bên kia hè đường, nơi bày bán những bao ngô, bao đậu, đang được cân bằng số lần đong ống. Ngay cả vốc ớt xanh - mà mỗi quả chỉ to hơn hạt thóc nếp tròn - họ vẫn dùng ống bơ để tính. Còn những bó rau, củ nghệ, nắm hạt thảo quả rừng…, với giá tiền đã được định sẵn theo những đống bé nhỏ gần nhau - như trò chơi ô ăn quan ngày nhỏ - mà lần đầu tiên tôi được thấy ở phiên chợ Tam Sơn. Hình như họ đến chợ không phải để mua, hay bán, mà đến đây để hỏi han, trao gửi nhau những món quà của núi rừng, sông suối. Và, đó cũng là sợi dây tình cảm từ bao đời mà cha ông họ, đến với nhau trong những buổi chợ phiên, vẫn được lớp cháu con người Mông, người Dao, người Tày, người Nùng…, ở nơi đây gìn giữ, mà mỗi người vẫn buộc ở cổ tay.
Tôi chợt thấy, những chiếc cân nhỏ, to hiện đại ở chốn thị thành, mà khi chạy, những hàng số cứ nhảy nhót liên hồi, lúc dừng lại, nó hiện lên chữ số chính xác đến lạnh lùng. Nhưng ở đây, những con số rõ ràng kia lại trở nên thừa thãi…
Bên ngoài chợ là một bãi đất trống, đó là nơi để dành cho người bán con lợn đen, đôi gà trống mái, rồi cả đàn chó nhỏ…, mà cân nặng của nó được tính bằng khúc cua rộng - hẹp, giữa thân người và cánh tay phải trái của mình, đang ôm chặt lấy con vật nhỏ, đi xuống chợ. Tôi hỏi “nặng bao nhiêu?” anh người Dao bảo “lấy mới nói!”. Tôi xòe tay ướm dọc theo chiều dài con lợn đen rồi hỏi “nuôi bằng này lâu không?”, anh trả lời vẻ thật thà “lau mấy cũng khong lớn bao nhiêu!”. Tôi cười và hỏi thăm anh thì biết, nhà của họ ở trên bản xa, hôm nay xuống chợ, bán con lợn để mua quần áo cho đứa út đi học dưới xã. Trên đường xuống, chỗ nào dốc ít thì người dắt lợn cùng đi, chỗ nào dốc quá, người phải bế nó xuống cho khỏi ngã “vẫn làm thế mà!” anh cười với vẻ mặt bình thản. Lúc ấy có một anh người Kinh tiến đến, tay kéo nhẹ sợi dây buộc cổ chú lợn rồi hỏi “mấy tiền?”, anh bảo “chín cham”, người mua cầm sợi dây nhấc lại một lần nữa, rồi gật đầu “ok”. Anh người Mông vội tháo sợi dây ra khỏi cổ chú lợn, rồi nhấc bổng nó cho vào chiếc rọ sắt. “Đủ chín trăm” anh người Kinh xòe những tờ tiền mới, rồi đưa cho vợ chồng anh người Mông. Họ cười, nét mặt rạng lên niềm hạnh phúc của đứa con sẽ có quần áo mới. Tôi tiến đến chỗ những chú chó con đang tụ tập, cả bọn đang mải mê đùa nghịch với nhau. Chắc hẳn, lần đầu tiên chúng được đi ra ngoài phố chợ, nhìn thấy những người lạ lẫm. Chúng tiến, rồi lùi, cố kéo căng sợi dây và sủa những tiếng óc ách nghe vui nhộn. Khi tôi tiến lại gần và vỗ tay đón một chú bé con cộc đuôi, nhưng nó vội quay đầu, rúc vào chân của người chủ, ra vẻ thủ thế. Tôi mải mê trêu đùa cùng những chú cún con ngộ nghĩnh, đáng yêu. Chúng cũng vô tư chạy vào ra, như không có sợi dây ở cổ. Không biết đến cuối chợ phiên này, anh em nó có trở về nhà cũ, hay phải đến một nơi xa lạ, mà mỗi đứa lại ở mỗi phương trời. Quả là, chợ phiên ở trên miền đá núi có nhiều điều lạ lẫm và cũng đầy thú vị!.

Từ Quản Bạ, lên thị trấn Yên Minh có hai tuyến đường, nếu đi theo Quốc lộ 4C ngang qua cửa khẩu Bạch Đích, đường đỡ cua, đỡ dốc nhưng lại xa hơn đến hai mươi cây số. Chúng tôi chọn tuyến đường đi qua đỉnh đèo Cán Tỷ, dù đường này rất quanh co với nhiều dốc đá cao, hiểm trở, nhưng bù lại, được chiêm ngưỡng gió núi, mây trời của thiên nhiên kỳ diệu. Tôi nhớ, lúc còn bé đã được nghe cậu tôi - khi ấy là bộ đội, đóng quân trên chốt biên giới Đồng Văn - được nghỉ phép về nhà kể lại: “Ngày mười một, tháng ba, năm một nghìn chín trăm tám mươi tám, có chuyến xe chở đầy hành khách đi từ thị xã Hà Giang, lên thị trấn Đồng Văn, đến chân dốc Cán Tỷ, nó nặng nhọc bò lên đỉnh đèo. Đường đèo bé nhỏ, chỉ vừa vặn một chiếc ô tô, phía bên trái là vực sâu, còn bên phải là vách đá cao nham nhở - mà có lúc lắc lư, nóc xe bị vách đá cứa thành những vết dài, chạy từ đầu đến cuối - dưới mặt đường là hai vệt bánh xe chổng chổng đá. Khi chiếc ô tô già nua chở đầy hành khách bò được lên đến gần đỉnh dốc, bỗng nhiên nó khựng lại. “Chết máy rồi!”, những tiếng kêu thất thanh, đầy sợ hãi vang lên. Xe tụt lại, bánh trượt ra khỏi mặt đường, rồi lăn nhiều vòng, xuống tận dưới vực sâu. Khi bộ đội và người dân đến cứu, chỉ còn lại vài người may mắn nhảy kịp ra ngoài, nên sống sót”. Nghe xong chuyện, dù không mấy người biết về con đường đá núi trập trùng, hiểm trở ấy, nhưng ai cũng lặng đi vì xót thương và sờ sợ.
Phần vì tôi muốn được thoải mái ngắm nhìn con đèo Cán Tỷ, phần vì nhớ lại câu chuyện xưa mà Cậu tôi đã kể, nên tôi cứ nhất quyết “đi xe máy!”. Ngồi sau lưng anh Tuấn “Hà Giang” - bạn học của chúng tôi, quê ở huyện Quản Bạ - trên chiếc xe mô tô một trăm năm mươi phân khối, trông hùng dũng. Anh nhắc “chắc nhé!”, rồi rồ ga lên dốc. Một thoáng sợ hãi lướt qua trước mặt “xe khỏe, sao phải sợ!”, tôi tự trấn an mình. Đường đèo dốc, nhỏ và lắm khúc quanh co, nhưng mặt đường đã được trải nhựa - dù không bằng cung đường mà chúng tôi vừa rẽ sang con đường này. Từ con đèo nhìn xuống, phía xa bên vực sâu, là tuyến đường Quốc lộ 4C chạy sát bên dòng sông Miện, giữa rừng núi điệp trùng, mặt nước lóng lánh hiện lên, như dải lụa xanh màu ngọc bích. Lác đác bên đường, hay dưới lưng núi có những cây Nghiến già to lớn, đơn độc, đứng chênh vênh giữa đá. Dừng lại giữa hai vách đá hình chữ V, anh Tuấn nói “Cổng trời Cán Tỷ đấy!”, vừa lúc đó chiếc xe khách chở các bạn cùng lớp tôi cũng lên đến nơi. Anh Tuấn giang rộng hai tay về hai phía con đèo “dưới là Quản Bạ, trên là Yên Minh”. Nhìn về trước và hai bên sườn núi - mà chỗ tôi đứng đã là đỉnh Cổng trời - xung quanh là những ngọn núi đá nhọn, nhấp nhô phải ngước mặt nhìn lên mới thấy. Trên cao kia cũng chỉ có mây và núi. Tôi tự hỏi “qua cổng đá này, có vào được nhà Trời không nhỉ?”. Rồi lại nghĩ “các nàng tiên trên thiên giới nhỡ lạc bước xuống đây, hẳn cũng sẽ hóa thân, ở lại dưới trần gian chung sống với loài người!”.
Chúng tôi ai cũng vui và thích thú, vì lần đầu tiên được đến một nơi vừa cao, vừa xa, đầy thơ mộng. Trèo lên vách núi, nơi có bức tường xây bằng đá - trông như màu bút chì đen, mà ngày xưa chúng tôi học vẽ kỹ thuật - cao quá đầu người. Vỗ tay vào bức tường dày khộp, anh Tuấn giảng giải “khi chiếm được Hà Giang, quân Pháp đã cho xây thành Cán Tỷ, họ làm hai cánh cổng làm bằng gỗ Nghiến dày, để soát xét người dân qua lại”, anh vừa nói vừa xòe gang tay ra ước lượng “còn tường thành nằm án ngữ con đường dọc theo hẻm vực của sông Miện”, nói rồi anh chỉ tay dọc theo bức tường đá, chạy dài từ nơi chúng tôi đứng xuống đến dưới dòng sông. Tôi ngạc nhiên khi thấy, bức tường thành dày đến gần một mét, có các lỗ châu mai hướng về phía Bắc, dọc tường thành còn có các lô cốt rất kiên cố, điểm cuối của bức tường, còn có một hang đá chứa vũ khí và dùng để phòng thủ. Lương Thiện - cậu lớp trưởng, quê xứ Đoài thông minh và hóm hỉnh, “trông khác gì Vạn lý Trường thành!”, cả bọn cùng ngớ ra, rồi “à” lên gật gù tán thưởng. Tôi cố tưởng tượng cánh cửa gỗ to lớn, nặng nề, dày đến cả gang tay, ngăn con đường độc đạo nơi chúng tôi đang đứng. Một ý nghĩ tò mò chợt đến “có chú mèo Doraemon ở đây, mình sẽ lắp lại cánh cửa gỗ đó, để đếm xem mỗi ngày có bao nhiêu người qua lại!”. Hỏi thêm anh Tuấn, chúng tôi còn được biết: Ngày mùng hai, tháng mười một, năm một chín năm chín, đặc vụ Quốc dân đảng Trung Quốc và thổ phỉ đã chiếm giữ cổng trời Cán Tỷ, kiểm soát tuyến đường từ thị xã Hà Giang lên vùng cao, công khai chống phá cách mạng. Cuối tháng mười một, năm một nghìn chín năm mươi chín, chúng tăng cường thêm bốn mươi tên - do Vàng Chỉn Cáo chỉ huy - chốt giữ Cổng trời và tuyên bố “Vùng lãnh thổ từ Cổng trời trở lên là xứ tự trị của người Mông. Nếu không được phép của các thủ lĩnh, không ai được qua Cổng trời”. Do đường lên Cổng trời hiểm trở, để tiễu phỉ, Quân đội ta phải chia thành ba cánh quân. Một cánh bí mật dùng thang trèo lên chiếm lĩnh đỉnh núi cao nhất, cánh thứ hai chiếm lĩnh phía Bắc Cổng trời, cánh thứ ba chiếm lĩnh phía Nam. Cả ba cánh quân hợp với nhau cùng đánh và phá tan quân phỉ. Vụ bạo loạn Đồng Văn năm ấy đã được dẹp yên.

Qua Cổng trời Cán Tỷ, xuống xã Lao Và Chải, đến ngã ba Na Khê - nơi gặp lại con đường Quốc lộ 4C. Khác hẳn với Quản Bạ, đoạn này hầu như chỉ toàn núi đất, chúng nối nhau điệp trùng, hai bên đường là rừng Sở, rừng Sa mộc và những cánh rừng Thông trải dài xanh ngát, đang vi vu trong gió. Chợt Mỹ Hạnh “Yên Bái” vỗ tay reo thích thú “như đèo Prenn trên Đà Lạt anh à!”, mấy anh em tôi đã từng đi qua đó, cùng gật gù xác nhận. Quả thật, ở đây cũng có những cung đường uốn lượn, bên những cánh rừng Thông xanh bạt ngàn, thơ mộng. Dưới sườn núi kia là những đám ruộng bậc thang uốn lượn, xếp thành từng mỗi nửa vòng tròn, theo thứ tự nhỏ - to, chúng cứ lớn dần, từ trên ngọn, đi qua sườn, rồi xuống đến chân núi, nơi có con suối nhỏ lặng lẽ, chảy dưới tán lá xanh. Từ trên dốc Na Khê, thung lũng Yên Minh thấp thoáng chạy dài, với những dãy phố dọc ngang tươi mới. Vượt qua suối Nà Đồng là chạm vào thị trấn. “Ơ, đường chữ I này!”, bỗng có tiếng kêu đầy ngạc nhiên. Cả xe nhìn về phía trước, thấy con đường thẳng băng, rộng dài đến vài cây số, chạy xuyên qua trung tâm thị trấn. Đã quen với những khúc cong cua, đoạn đường thẳng giờ lại làm chúng tôi lạ lẫm. Trong những con phố trẻ trung, tươi mới, là những ngôi nhà cao tầng khang trang, hiện đại, những tấm biển trước mỗi cửa hàng đua nhau nhấp nháy vui cười, như chàng trai, cô gái của người Pu Péo trong Lễ cúng thần rừng, vào ngày đầu tuần của tháng sáu lịch âm. Thật ngỡ ngàng với phố núi trên cao nguyên tươi xanh, xinh đẹp!.
*
Từ thị trấn Yên Minh lên Đồng Văn chừng bốn mươi cây số, những con cua càng trở nên gấp khúc và chóng mặt. Phía trước, những đám mây mù vẫn quẩn quanh trên những ngọn núi cao. Những dãy núi điệp trùng nối nhau không dứt, những khe sâu hun hút ở bên đường rờn rợn. Rồi đá, những tảng đá nổi lên ở khắp mọi nơi, nó nhô lên như cục bướu tròn trong góc nhà, lưa thưa nằm ngoài sân, lô nhô trong khoảnh vườn, rồi dày đặc đuổi nhau từ quả núi này, sang dãy núi khác…, xa đến tận mây mù. Và tất cả phủ trên mình một màu mây giông, như bầu trời trước bão. Vượt qua con dốc Thẩm Mã như tiếng ngựa phì phò thở mạnh, rồi quanh co lên đỉnh dốc ChínKhoanh dài đến sốt ruột - nối từ xã Phố Cáo sang xã Sủng Là. Đứng trên đỉnh dốc, nhìn lại quãng đường vòng vèo, cheo leo trông như con mãng xà khổng lồ, đang oằn mình leo lên đỉnh núi. Anh Tuấn chỉ xuống dưới và nói “ở đây, mỗi con dốc, mỗi đoạn đèo đều là một sự tích”. Thế Cường - người thành phố Nam Định - chép miệng “có cưỡi ngựa, đi hết con dốc này chắc cũng phải buổi sáng”. Nghe vậy, Ngọc “Hưng Yên”, vẻ thành thật “nếu có hầm chui, không được đi qua đây thì tiếc lắm!”. Chiến “sông Miện” nhanh nhảu chen vào “giống đèo Hải Vân thôi!”, nghe nói vậy, mấy người khách xung quanh cũng phải phì cười, vì những ước ao của nhóm sinh viên già, nhưng tâm hồn tươi trẻ. Chúng tôi tất bật lưu lại những khoảnh khắc thú vị của mình ở con dốc dài, khó gặp, để về làm kỷ niệm. Thu Hiền, cô gái “xứ Tuyên” thì bận bịu với bạn Thúy Loan “Gôi” để lai - chim, xem cho đỡ tiếc.
Xuống đến chân dốc là đến làng Lũng Cẩm, ghé vào thăm ngôi nhà của cô bé Pao, người Mông xinh đẹp - mà hình như ai đã qua đây, cũng vào thăm một lần. Tôi thẩn thơ ngắm nhìn bức tường rào, với những viên đá nhỏ to, lớn bé vẫn nguyên hình thô mộc, được gài vào với nhau chồng khít, vững chãi bao quanh lấy ngôi nhà. “Chả thấy vữa gì nhỉ?”, Hà còi “Hải Dương” lấy ngón tay cố len vào kẽ đá. Anh Tuấn vỗ vai bảo nó “mỏng như gián mới qua được, nhá!”. “Nghệ nhân đá!”, tôi thầm cảm phục và dợm người bước qua cánh cửa. “Vé chú ơi!”, cô gái trẻ mỉm cười và chỉ tay vào tấm giấy mỏng đang nằm trong tay tôi. Trong ngôi nhà mái ngói âm dương phủ màu đá núi, bốn bức tường đất dày, chằng chịt những vết chân chim trên thửa ruộng bậc thang thiếu nước. Bậc cửa gỗ, cầu thang bé, bếp đỏ hồng..., dường như vẫn nguyên một màu xưa cũ. Tôi chợt thấy cuốn sách “Tiếng đàn môi sau bờ rào đá” để trên góc bàn gỗ, mà mới chỉ được đọc vài trang, ở phần đầu vội vã…
*
Đường dẫn vào Cột cờ Lũng Cú vẫn là những con dốc với vực sâu, cùng những khúc cua trái - phải đầy lo lắng, nhưng cũng đủ rộng để tránh những chiếc xe ngược chiều, có đoạn đường sát sạt với mốc giới bên kia. Đến sân, đoàn chúng tôi chậm rãi, leo qua mấy trăm bậc đá, vòng theo những bậc cầu thang bằng sắt để lên đến đỉnh cột cờ. Đứng ở giữa không trung bao la, chỉ có mây trời, gió lộng và lá cờ đỏ sao vàng năm cánh của Tổ quốc Việt Nam, đang kiêu hãnh tung bay, dù nắng mưa, sớm tối, không bao giờ ngơi nghỉ. Lần đầu tiên, đôi mắt tôi được sổ lồng để tự do bay xa, vượt qua sông Nho Quế, cao hơn những rặng núi xanh rì, của một miền đất khách xa xôi, lạ lẫm. Hẳn là, trong trái tim của mỗi con dân nước Việt, ai cũng muốn được đứng ở đây, để con tim nóng bỏng của mình rung lên lời Đất nước!.
Vào thăm dinh thự của dòng họ Vương, chỉ cách thị trấn Đồng Văn quãng mười lăm cây số - mà từ trên Quốc lộ 4C trông xuống như một pháo đài - nằm trong thung lũng nhỏ. Chúng tôi được cô gái của dòng họ Vương cho biết, khu dinh thự do ông Vương Chính Đức, người đứng đầu gia tộc họ Vương giàu có và quyền uy, được người dân lúc bấy giờ tôn sùng là “vua Mèo”. Người trong họ chỉ biết, dinh thự này được xây dựng khoảng những năm đầu thế kỷ hai mươi. Tôi đứng trong bức tường rào cao hơn đầu người, được xây bằng những viên đá to màu xám, từ bên trong nhìn ra phía ngoài, qua những lỗ châu mai. Hương “Lão Bạch” giơ tay giả làm cây súng chĩa ra ngoài và nói “giống như bức tường dưới thành Cán Tỷ!”. Nhìn lên con đường Sà Phìn, men sát mép thung sâu, nằm dưới chân vách đá dựng đứng, cao gấp hàng chục lần bức tường nơi tôi đứng, thấy những chiếc xe nhỏ to cứ ào ào chạy. Đâu đây, có nỗi lo lắng mơ hồ cứ đeo bám lấy tôi.
Nghỉ lại ở Đồng Văn, ai cũng thấy bất ngờ, bởi thị trấn phố núi có rất nhiều du khách lên thăm. Dọc theo con phố cổ, là những nhóm nam thanh, nữ tú đang vui đùa trong tiếng cười sảng khoái. Những cặp vợ chồng màu da trắng, đeo chiếc túi vải chàm của người Tày, dắt tay nhau dạo chơi dọc phố. Bên sạp hàng, chị gái người Lô Lô đang cùng cô thiếu nữ tóc vàng, ướm thử chiếc váy hoa sặc sỡ. Mấy cậu thanh niên cao nghều, đang xì xồ nhấp thử bát rượu ngô men lá, trên chiếc bàn gỗ nhỏ. Có hai mẹ con với bộ tóc cầu kỳ và màu da lẫn vào chiếc váy đen, đang thích thú với những mảnh vải lanh, thêu nhiều màu sắc... Đêm, những bóng đèn nhấp nháy thưa dần, màn sương sa dần trở nên thẫm đục. Tôi nhìn lên vách đá cao ngất trên phố cổ Đồng Văn. Chỉ thấy tấm màn trời đang buông xuống lặng im, trầm đục. Không ai biết núi đã đứng ở đây tự bao giờ, nhưng tôi chắc, núi như mặt gương thần khổng lồ, thu vào mình biết bao triệu mùa sương sa, bao nhiêu đời người, bao nhiêu phiên chợ và biết bao những phận người sáng - tối, ở nơi này. Tôi chợt nhớ đến Thượng Lâm quê mình, thung lũng ấy cũng có vách núi cao, thẳng đứng như chiếc gương thần.

Tạm biệt phố cổ Đồng Văn để sang thăm Mèo Vạc, chúng tôi vào nơi đặt Cụm tượng đài thanh niên xung phong trên con đường Hạnh Phúc. Dưới bức tượng uy nghiêm, những dòng chữ như con tàu chầm chậm, đưa chúng tôi ngược về những ngày lịch sử: từ năm một nghìn chín trăm năm mươi chín. Hơn một ngàn chàng trai, cô gái, thanh niên xung phong từ các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Nam Định, Hải Dương, cùng hàng ngàn dân công của vùng cao nguyên đá, họ đã mở con đường từ thị xã Hà Giang lên Đồng Văn, sang Mèo Vạc. Sau sáu năm gian lao, vất vả cùng bao nhiêu đau thương, mất mát của những con người đi xây dựng con đường - mà bây giờ đã trở thành huyền thoại. Đến ngày hai mươi, tháng ba, năm một nghìn chín trăm sáu mươi lăm, con đường dài một trăm tám mươi lăm ki-lô-mét đã được hoàn thành “…con đường đó đã trở thành những tượng đài bất tử trong lòng của thế hệ mai sau...”. Và hôm nay, đường Hạnh Phúc là niềm tự hào của những người con, trên vùng đất cao nguyên đá núi. Khi những nén nhang thơm trước những người Anh hùng liệt sỹ vẫn còn cháy đỏ, lại có thêm những nén nhang thơm ngát, của những người phía sau, bước vào tưởng nhớ.
Mã Pì Lèng - đó là cái tên gợi nhiều cảm giác tò mò, cho những ai đã, chưa và sẽ đến nơi này. Con đường như sợi dây rốn nối liền hai bên huyện, nhưng nhỏ bé, chênh vênh, đầy những nỗi nguy hiểm chực chờ. Nó cứ vắt vẻo chạy bên mép đá sâu thăm thẳm, mà chẳng may, có lỡ tay đánh rơi đồ vật xuống kia, cũng chẳng thể tìm lại được, còn ai đó có bị yếu tim, xin hãy nhắm mắt lại và chớ nhìn ra ngoài cửa sổ. Tít dưới vực sâu kia, nếu không có dòng sông Nho Quế mảnh mai, như nét mực tài hoa của ông Đồ thư pháp chặn lại, những tưởng, nó sẽ sâu đến tận vô cùng. Nhưng phía bên dưới con đường, lại có một sức mạnh vô cùng mãnh liệt, như hút lấy hồn ai khi đã nhìn thấy nó. Ấy chính là hẻm vực Tu Sản. Trong hơi gió lạnh căng của những ngọn núi điệp trùng - mà hình như chỉ có ở nơi đây - Toản “Hà Nội” reo to phấn khích “nếu có bộ quần áo người dơi, tôi sẽ bay qua hẻm núi này!”. Tất cả mọi du khách đứng đó cùng cười, kể cả mấy anh chị người “Tây” - hình như cũng biết tiếng Việt - tỏ vẻ vô cùng thích thú. Thấy anh Nghĩa “Hải Dương” - người đã đi máy bay khắp mấy vòng trái đất - trầm ngâm, tôi liền hỏi “nước họ đẹp như mình không anh?”, gật đầu anh vội đáp “đẹp lắm, nhưng…” anh ngập ngừng “mưa thì sợ đá rơi!”, anh nói và chỉ tay lên những đoạn vách núi đá cao dựng thẳng. Tôi gật đầu đồng tình rồi ước “thày trò Đường Tăng mà qua đây, mình sẽ xin Tôn Ngộ Không biến gậy sắt thành đoạn mái vòm - như tấm khiên thép của người chiến binh - từ dưới chân, lên tận đỉnh núi. Hết sợ đá lở!”. Đang say sưa, tôi lấy một tay xoay một tay dựng “chỗ nào vách cao quá thì mình lắp khiên, bên trong làm hầm chui, mở mấy cái cửa sổ nữa, để nhìn ra hẻm vực ngắm nghía”, tôi lại chỉ tay vào cánh cửa xe “bên ngoài ốp thêm đá núi, kẻ dòng chữ đường Hạnh Phúc, Mã Pì Lèng, Sà Phìn, Quản Bạ…”. Mấy anh bạn tôi cười, rồi trêu “vẫn mơ màng như lúc còn đi học ấy nhỉ”. Tôi cười, lấy giọng vẻ ngày xưa “thì thôi… nữa!”.
Chúng tôi quay trở lại thành phố Hà Giang, theo con đường từ thị trấn Mèo Vạc, đi qua xã Mậu Duệ, để xuống thị trấn Yên Minh. Anh Tuấn nói “đi đường này là tròn một vòng!”. Anh Đức Kiệm “Văn Chấn” vỗ vào vai tôi nói “gớm nhỉ, bơ rưỡi đấy!”, tôi cũng không hiểu anh khen hay là chê. Tôi díu mắt, rồi ngủ một giấc no say, không biết vì đường xa, hay những bát rượu ngô tim tím, ngọt mềm của cô gái người Mông xinh xắn.
Tuyên Quang, 5/2025
L.T
Ảnh của Đinh Công Thủy



