Thèn Hương
Nhà báo Đỗ Hùng
Nhà báo Đỗ Hùng qua đời, không phải là tin quá đột ngột, bởi ai cũng biết ông đã chiến đấu với căn bệnh ung thư từ khá lâu. Dẫu vậy, ông ra đi để lại một khoảng trống trong làng báo tỉnh nhà, như một bản nhạc thiếu đi nốt bổng, bởi hiếm ai sống một đời sôi nổi, đam mê, cháy hết mình cho nghề nghiệp như ông.
Tôi có duyên được làm việc cùng ông tám năm ở Phòng phóng viên Kinh tế, Báo Tuyên Quang. Với cương vị là một Phó phòng, rồi sau đó là Trưởng phòng, ông luôn gương mẫu trong hoạt động nghiệp vụ, tận tâm và nghiêm khắc. Với tôi, ông là bậc thầy về khả năng làm tin, chụp ảnh và mời gọi quảng cáo. Khi mới vào nghề, tôi là đứa làm tin kém, luôn bị thiếu chỉ tiêu tin. Tôi thắc mắc mãi không hiểu tại sao ông vừa lập kế hoạch cả tháng cho các phóng viên trong phòng, vừa biên tập mà vẫn viết được nhiều đến thế, nhất là tin, trong khi thời ấy chưa có điện thoại di động, mạng Internet như bây giờ. Sau vài lần đi cơ sở cùng ông, tôi mới biết ông đã nuôi dưỡng nguồn tin kỳ công như thế nào. Qua năm tháng ông đã thiết lập một mạng lưới cộng tác viên là các đầu mối cung cấp thông tin từ cơ sở rộng khắp trong tỉnh. Ai nấy gặp ông đều tay bắt mặt mừng, như người thân lâu ngày gặp lại khiến tôi càng nể ông hơn.
- Này cháu gái, đơn giản lắm, để cơ sở yêu quý mình, chú áp dụng triệt để nguyên tắc “có đi có lại”. Mỗi năm mình tiếp nhận bao nhiêu thông tin từ họ, nên phải “biết điều”. Thỉnh thoảng cần biếu họ những món quà nhỏ như chai mật ong, cân chè, cân hoa quả. Muốn khai thác tin sâu hơn thì dành thời gian mời họ bữa cơm hoặc chầu bia…
Ông nhìn tôi cười khà khà. Đầu óc tôi bỗng “sáng sủa” được đôi chút. Cách xử lý số liệu của ông cũng thật tài tình, từ một biểu số liệu trong báo cáo, phải biết làm sao chia thành các tin khác nhau, giúp bạn đọc dễ hình dung mà không bị “phí” thông tin. Từ dạo ông chỉ đường, tôi không còn bị thiếu tin như trước.
Đối với mỗi bài viết, ông đòi hỏi người viết diễn đạt ngắn gọn, xúc tích nhất. Ông coi trọng hàm lượng thông tin trong bài viết hơn là “văn vở” dài dòng. Vậy nên phóng viên thường nói sau lưng ông là “máy chém” chữ. Những bài viết dài dòng, đọc mãi không thấy thông tin đâu, ông cắt gọt không thương tiếc. Hồi ấy chúng tôi vẫn nộp bản thảo viết tay. Có phóng viên nộp cho ông một bài dài sáu trang giấy, ông đọc xong bỏ luôn hai trang vào sọt rác, gạch thêm nửa trang nữa mà nội dung thông tin vẫn đảm bảo mới tài!
Vào Báo được một thời gian, tôi tập tọe viết phóng sự, ghi chép. Đối với cây bút mới vào nghề như tôi, viết xong một bài như vậy là cả sự kỳ công. Nộp bài xong tôi chờ đợi lời khen từ ông, ai dè ông chê tơi tả là thừa câu, thừa chữ… Nhìn bản thảo bị gạch đỏ choe choét, nước mắt tôi trực trào ra. Sau khá nhiều lần bị gạch bài như vậy, tôi cố gắng chắt lọc câu chữ, viết ngắn gọn hơn. Ông bảo: Độc giả cần nhất là thông tin, văn vở như mắm muối nêm vào, làm sao cho vừa đủ. Tôi hiểu rằng ông yêu cầu cao, đã dùng đến thể loại phóng sự, ghi chép thì cần đến chi tiết thật đắt, văn phong cuốn hút, chứ bài chưa đủ “tầm” thì thà viết bài phản ánh còn hơn.
Về phương diện mời gọi quảng cáo, ông luôn là số một của Báo Tuyên Quang thời ấy. Ông có mối quan hệ cực kỳ tốt với các doanh nghiệp. Cứ mỗi dịp tòa soạn triển khai làm báo Tết, ông lại được phân công nhiệm vụ mời càng nhiều quảng cáo càng tốt. Trong khi đồng nghiệp khác mời gọi mãi cũng chỉ lẹt đẹt hai mươi đến ba mươi triệu tiền quảng cáo/vụ, thì ông mời cả trăm triệu nhẹ như lông hồng. Lúc nào trong cặp ông cũng có những bản hợp đồng, thanh lý hợp đồng đánh máy sẵn, khi doanh nghiệp đồng ý quảng cáo, ông chỉ việc điền thông tin vào, đưa họ ký hoàn thiện là xong. Tác phong chuyên nghiệp ấy, khiến các doanh nghiệp rất nể trọng và yêu quý. Tôi cố gắng học ông từ năm 2004, mãi đến năm 2010 mới có thể chạm đến mốc mời gọi được trăm triệu tiền quảng cáo báo Tết. Ông vỗ vai tôi bảo: Cháu gái giỏi lắm, cứ thế phát huy nhé! Phóng viên Kinh tế phải biết làm quảng cáo. Nói hay, nói giỏi bao nhiêu cũng không bằng con số biết nói!
Nhờ có mối quan hệ tốt với khối doanh nghiệp như vậy, nên vừa nghỉ hưu ông đã được Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh mời sang làm Phó Văn phòng, rồi Chánh Văn phòng kiêm phụ trách trang thông tin điện tử và các nền tảng mạng xã hội của Hiệp hội. Bên cạnh đó, ông còn được bầu vào vị trí Chủ nhiệm Câu lạc bộ Người làm báo cao tuổi của Hội Nhà báo tỉnh. Ngọn lửa nghề lúc nào cũng bùng cháy trong ông, kể cả khi sức khỏe đã suy giảm, ông vẫn bận rộn với việc đưa tin cho Hiệp hội và các hoạt động nghiệp vụ của Câu lạc bộ. Sau một thời gian dài “im ắng” do Ban Chủ nhiệm cũ tuổi cao, sức yếu, ông đã đi xin tài trợ và vực lại phong trào hoạt động của Câu lạc bộ Người làm báo cao tuổi, để câu lạc bộ trở thành sân chơi bổ ích cho những người làm báo đã nghỉ hưu.
Ông có duyên với Hội Văn học Nghệ thuật qua mảng Nhiếp ảnh. Những tấm ảnh của ông không chỉ nhìn bắt mắt mà còn mang đậm hơi thở cuộc sống. Tôi nhớ mãi những tấm ảnh ông chụp chợ phiên vùng cao, thu hoạch lúa, hái chè, làng nghề… tấm nào cũng có màu sắc tươi sáng và sống động. Đặc biệt ông có rất nhiều ảnh chụp ở lĩnh vực sản xuất công nghiệp, với những góc máy kỳ công, làm nổi bật lên dáng dấp của những nhà máy là cánh chim đầu đàn của ngành công nghiệp tỉnh. Ông từng đảm nhiệm vị trí Ủy viên Ban Chấp hành Hội, Chi hội trưởng Chi hội Nhiếp ảnh của Hội Văn học Nghệ thuật. Cách biên tập một tấm ảnh đăng báo thời ấy là đặt ảnh trên bàn kính, dùng dao rọc giấy và thước để cắt, cúp làm sao cho tấm ảnh đạt yêu cầu. Mỗi lần biên tập ảnh, ông đều gọi chúng tôi lại chỉ ra những lỗi sai của bức ảnh, từ đó mà tôi và các phóng viên trong phòng chụp ảnh tốt hơn.
Trong nghiệp vụ là vậy, ngoài đời tất cả các đồng nghiệp đều yêu quý ông ở phong cách sống nhiệt tình, sôi nổi, chu đáo. Ông còn là “cây cầu lông”, “cây văn nghệ”, luôn mang lại niềm vui, tiếng cười sảng khoái cho đồng nghiệp.
Lần cuối cùng thăm ông ở bệnh viện, tôi từng định hỏi trong cuộc đời mình ông có tiếc nuối điều gì không, nhưng khi nhìn ánh mắt tràn đầy niềm tin, nghị lực sống của ông, tôi dừng lại. Có lẽ ông không tiếc nuối điều gì, bởi từng phút, từng giây ông đều cháy hết mình với nghề, với đời.
T.H