Thượng Nông ngày trở về

Thứ hai, ngày 20-11-2023, 09:06| 638 lượt xem

Bút ký dự thi của Lê Na

 

Tôi là người mắc nợ nhiều lắm, Nà Hang. Dù chỉ một đôi lần đến rồi đi, mà sao kỷ niệm cứ theo tôi, dằng dặc tháng năm trường. Mảnh đất, con người ấy, kỷ niệm ấy, như máu thịt trong sâu nặng hồn tôi, như mây luôn tìm về núi. Như con nước, dẫu xuôi dòng vẫn luôn nhớ về nguồn cội. Mỗi mùa thu về, trong tôi, nỗi nhớ vùng cao lại như đầy lên, ăm ắp. Trở lại Thượng Nông lần này, với tôi là tìm về ân nghĩa, nhớ về một thời tuổi trẻ.

Tháng mười một, năm một chín bảy tư, lần đầu tiên tôi đặt chân đến huyện Nà Hang (Ngày đó, huyện mang tên Nà Hang, không phải Na Hang như bây giờ). Một chàng trai mười tám tuổi, vừa rời ghế nhà trường cấp ba Tân Trào, ngơ ngác với đời. Năm đó, cả nước dồn tổng lực cho Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngành Công an được Nhà nước giao nhiệm vụ cấp đổi lại toàn bộ chứng minh, căn cước cho công dân. Lính mới tò te là tôi, hôm ấy, theo một cán bộ công an huyện, trên một chiếc xe tải, không có mui, đi xã làm chứng minh, căn cước.

Xe qua cầu Bản Lãm, bắc qua sông Năng, rồi xuyên qua những cánh rừng nguyên sinh, thuộc khu C của huyện. Hai chúng tôi bị xe lắc, xóc như muốn hất tung xuống đường. Quá trưa, mới tới bản Khoan, xã Thượng Nông. Bữa cơm có măng luộc, canh rêu suối và món lạ, tôi không dám ăn. Đó là “tu khuyết xảo mạy” (nhái xào măng). Những ngày ở xã, chúng tôi thường xuyên phải chân đất lội suối, trèo đèo đi bản. Ăn ngủ nhờ dân. Chúng tôi có trả bằng tem phiếu, thì đồng bào cũng chẳng thể sử dụng được.

Tôi được xã bố trí ăn ngủ tại nhà ông Nguyễn Văn Cát, sinh năm 1933, ở Bản Mù. Ông là Phó Chủ tịch, kiêm Trưởng Công an xã. Ông bà Cát có bốn người con, ba trai, một gái là Bằng, Quang, Hoa và Đào. Bản Mù, nằm trung tâm xã Thượng Nông, có các đỉnh núi Pù Tre, Pù Mòn quanh năm sương mù bao phủ. Người Tày đã ở đây từ hàng trăm năm trước. Qua Kéo Toóng là sang Bản Khoan. Con suối nhỏ chảy giữa đồng, chia đồng ra làm hai mảnh. Con suối giống như tấm khăn thêu, vắt ngang cánh đồng.

Nửa thế kỷ trước, Thượng Nông chỉ trồng lúa một vụ. Đồng đất bỏ hoang vụ đông và vụ xuân. Đời sống của đồng bào trông chờ vào rừng và ruộng. Ngoài trồng ngô lúa, chăn nuôi gia súc, gia cầm, bà con có nghề phụ là săn bắn và hái lượm. Rừng cho gỗ dựng nhà, cho rau, củ, quả mùa nào thức nấy. Rừng cho thực phẩm cải thiện bữa ăn. Tầm ba bốn giờ chiều, tiếng tù và inh ỏi gọi dân bản đi săn bắt thú. Từ lợn rừng, hươu, nai, đến khỉ, nhím, chồn, cáo. Chúng mò về các nương lúa, ngô, sắn ở rìa bản. Những người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, có tài bắn súng kíp thì đón lõng thú. Số đông dân bản, mang theo gậy, dao dàn hàng vây quanh núi, hô hét, dồn thú vào vị trí phục đón của các tay súng. Nay ở đồi núi này, mai sang đồi núi khác. Săn ngày, rồi săn đêm. Được thú, cả bản chia nhau. Đó là niềm vui chung của bản. Cũng đã có chuyện đau lòng xảy ra. Một buổi đi săn, người anh vợ, bắn nhầm phải em cậu. Rất may, viên đạn xuyên qua bụng dưới, dân bản đưa ra bệnh viện huyện cấp cứu kịp thời nên nạn nhân được cứu sống.

Những chiều đông, đàn trâu gầy gặm cỏ trên đồng. Cạnh đó, là những chú ngựa. Ngựa chủ yếu nuôi để vận chuyển hàng hóa nông sản. Bọn trẻ con ra suối hái rau dớn, măng rừng. Nhiều đứa, bới đào nhái, dế mèn làm thức ăn. Bọn trẻ đốt lửa, nướng những thứ kiếm được ăn với nhau. Ôi, sao tôi nhớ những nhem nhuốc, nghịch ngợm, không giống ở đâu của những đứa trẻ nơi đây đến thế.

Khi những ruộng lúa nếp vừa nặng bông, đó là mùa khẩu mẩu. Bản nọ, xóm kia rộn vang kéng loỏng. Trai gái hẹn hò, đối đáp bằng nhịp chày giã cốm. Mùa cốm cũng là mùa trăng, mùa của tình yêu đôi lứa. Cả đất núi dập dìu lời slương điếp. Thượng Nông có nhiều suối. Suối nào nước cũng lạnh, tùy mức độ lạnh mà dân bản gọi tên là Nặm Lèm, Nặm Ta, Nặm Lìn. Ngày xưa, muốn đi sang xã Thượng Giáp, bà con phải mất nửa ngày, vượt qua Pù Loòng Nào. Bây giờ, Quốc lộ 280, đi theo men phía Tây của dãy núi, chỉ nửa tiếng xe máy là tới. Pù Loòng Nào, một ngọn núi cao còn rất nhiều sự tích và huyền thoại. Từ những triền núi cao ấy, nước róc rách về bản. Nước chảy trong ống tre, vầu chia đều đến mọi nhà sàn.

Mùa đông, khi quả bông chín trên các nương núi được thu hái về, các mế, các chị em lại mài miệt cán bông, se sợi hay lặng lẽ bên khung cửi dệt vải. Sương lạnh lùa vào tận cửa. Ngày đó, bên bếp vuông nhà sàn, tôi học nói tiếng Tày và nghe các bà, các chị em gái hát Then, hát Lượn.

Bản Mù, ngày đó đang xóa mù. Cũng giống như Bản Gioòng, Pác Củng, Nà Tà, những điểm trường đã thấp thoáng mọc lên giữa núi cao, rừng rậm. Người Dao, người Tày mò mẫm đi tìm cái chữ. Tôi đã gặp những cô giáo từ thị xã Tuyên Quang, từ các huyện Yên Sơn, Sơn Dương lên dạy chữ. Đó là cô Chi, cô Mùi, cô Hiên, thầy Chất. Có thầy cô từ Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Hà Tây… Và, tôi đã gặp một người con gái mà không sao quên được. Cô giáo Vương Thị Luyên, người Bản Khoan. Năm đó Luyên mười sáu tuổi, vừa được hợp đồng vào dạy cấp một. Lúc chia tay cô giáo để đi bản, tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn của Luyên. Bàn tay thơm mùi viên thuốc bổ Polivitamin.

Hôm tôi xa Thượng Nông, bà Dương Thị Thổ, vợ ông Cát, nhét đầy cái túi pác mạ bà vừa cho tôi, món ngon của vùng đất này. Đó là pẻng đéc (bánh dày). Hết mùa khẩu mẩu, đến mùa pẻng đéc. Pẻng đéc được làm từ xôi nếp vừa chín, đổ ra cối gỗ giã, dẻo quánh, màu vàng ngà. Nhân bánh làm bằng vừng đen, trộn đường. Hình như, pẻng đéc chỉ làm vào mùa đông. Bà lo tôi đi bộ đường xa đói, mệt. Tôi qua điểm trường cô giáo Luyên dạy học. Đang giờ lên lớp, tôi vẫy tay chào, cô giáo cũng vẫy tay chào lại. Lũ trẻ ngơ ngác ngó ra.

Suốt những năm dài công tác, và đến khi được nghỉ chế độ, tôi luôn ngóng về nơi ấy. Gặp những người ở Bản Gioòng, Bản Khoan, hay Bản Mù, Nà Tà, tôi đều hỏi thăm những người đã quen, đã gặp. Thật vui sướng biết bao khi Thượng Nông đã quá nhiều đổi mới. Một vùng quê núi, vùng sâu xa, đã bừng thức, thay da đổi thịt.

Chín năm trước, nhân một chuyến đi phượt qua xã, dẫu vội vàng, tôi vẫn dừng lại hỏi thăm người cũ. Ông bà Cát Thổ đều đã về Trời. Ngôi nhà sàn ngày xưa không còn nữa. Các con ông bà đã có gia đình riêng, ba người trụ lại xã Thượng Nông, chỉ có người con cả tham gia công an, giờ nghỉ hưu ở thành phố Tuyên Quang. Người con trai út của ông bà là Nguyễn Hải Đào đã xây nhà mới, gần trung tâm xã. Ngày tôi đến Đào mới ba tuổi, bây giờ Đào là Bí thư Chi bộ thôn. Chi bộ Bản Mù có bốn mươi mốt đảng viên, là chi bộ thôn bản có số đảng viên đông nhất xã. Tôi thắp hương viếng ông bà, tự nhiên nước mắt rơi. Nước mắt nhớ về một thời nghèo khó, đến với đồng bào chỉ là người khách, mà họ coi tôi như ruột thịt, anh em.

Tôi hỏi thăm tìm đến nhà cô giáo Luyên. Gặp người phụ nữ đang nấu rượu, dưới gầm sàn. Người phụ nữ ngước lên hỏi tôi: Chú cần gặp ai? Tôi bảo: Anh cần gặp em. Có phải Vương Thị Luyên không? Bà cười, đúng em rồi. Tôi lên cầu thang, thăm bà mẹ chồng Luyên đang mệt. Cô giáo không hề nhớ tôi là ai. Hỏi thăm các thầy cô giáo cũ, bà giáo hưu cho biết, họ đã chuyển về xuôi, có người đã mất. Lúc chia tay, bà giáo rót một chén rượu đầy, còn nóng hổi, mời tôi.

Chuyến đi này, tôi cùng nhà báo Nguyễn Quốc Trí. Là người yêu mến vùng cao, ông Trí đã đi hầu hết các bản làng xa xôi của Hà Giang. Tôi gọi điện trước cho ông Nguyễn Văn Việt, chồng bà Luyên để báo cơm chiều. Ông Việt vui lắm khi được đón tiếp chúng tôi. Ông Việt, nguyên Chủ tịch Hội Cựu chiến binh của xã. Ông đã từng tham gia chiến đấu tại biên giới phía Bắc. Hai ông bà giờ có bảy triệu tiền lương hưu mỗi tháng. Hai anh con trai đều đã trưởng thành. Ngôi nhà sàn thân thuộc, rộng rãi, nằm ngay cạnh đường Quốc lộ 280.

Khung cảnh quê núi làm nhà báo Quốc Trí ngỡ ngàng. Ông thốt lên, hóa ra Thượng Nông mới là nơi đáng phải đến. Ông mê mẩn với trâu đàn, mây núi, với rơm lúa và những mái ngói âm dương màu nâu xỉn của nhà sàn. Ông đeo máy ảnh lội trên ruộng rạ, sau gặt, hướng góc máy về mọi phía yêu thương. Bản Mù, tựa lưng vào Pù Tre, nét đẹp từ cổ xưa tới nay. Những mái ngói đất nung, lẩn dưới màu cây lá. Con đường bê tông mới, vệt sáng ranh giới giữa làng và ruộng. Xe tải chở thóc, xe con của khách du lịch, xe máy người dân, ngược xuôi đan nhau. Đàn trâu về bản, đủng đỉnh cõng trên lưng vạt nắng muộn, khép lại một ngày. Khói cơm chiều vương vấn. Quê núi vừa bình yên, vừa hối hả.

Chúng tôi qua bản Nà Tà. Bản dựa lưng vào ngọn Pù Loòng Nào. Nơi đây nguồn nước lạnh hơn các nơi khác. Vì thế nên lúa thường chín sau. Khi nơi khác đã gặt xong, thung lũng lúa bậc thang nơi đây mới đổ vàng. Những thửa ruộng lượn cong, được những ngôi nhà sàn từ hai bên triền núi bao bọc. Suối Nặm Ta đi qua bản, nhận thêm một nhánh nữa rồi đổ ra Nặm Lèm.

Bốn chín năm trước, tôi đã được xem phim ở đây. Hôm ấy, bản cử đoàn viên thanh niên đi từ sáng sớm để khiêng vác máy chiếu, máy nổ, phông màn… về bản. Hai ba giờ chiều, dân bản từ khắp nơi đã đến. Họ mang theo đồ ăn, nước uống và bó nứa làm đuốc soi đường về. Tôi ngó xuống chân, hầu hết bà con đi chân đất. Phim tiếng Việt được thuyết minh bằng tiếng Tày. Niềm vui xưa cũ ấy, giờ đã thành cổ tích.

Nà Tà hôm nay đã khác rất xa ngày ấy. Nhiều nhà dân ở đây đã sử dụng wifi. Công nghệ bốn chấm không đã xuất hiện ở bản. Đường dây điện lưới Quốc gia chạy dọc cánh ruộng, đến tận chân núi. Lác đác nhà sàn xây kiên cố, mà vẫn giữ được nét văn hóa truyền thống của người Tày. Con đường bê tông vào bản làm cách đây chưa lâu, nay đang xây móng phía ruộng để mở rộng. Cả bản đã có bốn ô tô để vận chuyển vật liệu xây dựng, lương thực, thực phẩm. Chẳng còn thấy ai gánh vác trên đường. Lội xuống Nặm Ta, nước suối vẫn lạnh như ngày xưa, tôi vớt một viên cuội nhỏ làm kỷ niệm ngày trở về.

Ông bà Việt Luyên, tiếp chúng tôi một bữa cơm Tày. Gạo thơm từ cánh đồng Bản Khoan. Món vịt luộc dân dã, đậm chất đồng bào. Không thể thiếu “khẩu nua, pia chí” (cơm nếp, cá nướng) đây là đặc sản của vùng này. Lại thêm canh chua, măng nhồi. Rượu ngô do bà giáo hưu nấu. Thứ rượu mà chín năm trước tôi đã được nếm thử. Nhà báo Quốc Trí tranh thủ khai thác đời lính của chủ nhà. Hai bạn già cựu lính, tâm đồng, ý hợp, thỉnh thoảng lại giơ chén. Cạch! Ông Việt khoe, mới có một người bạn đầu tư làm chè ở Bản Gioòng, biếu chè ngon. Ông lại giới thiệu  món bún Tày truyền thống ở đây. Ông bảo, dân trong xã đã có mấy chục hộ có xe ô tô. Bây giờ nhiều người Thượng Nông đã nghĩ ăn ngon, mặc đẹp hơn là chạy vào rừng kiếm bữa.

Đêm nay, chúng tôi ngủ ở nhà sàn. Sàn lát gỗ rộng mênh mông. Thật khó ngủ. Tôi bước xuống cầu thang. Đêm miền rừng đã se se lạnh. Sao như ai phơi thóc, quãi đầy trời đêm. Những ngôi nhà sàn chân núi, hắt ánh điện trong sương mờ, ảo. Nửa thế kỷ của một đời người, thật quá dài. Nhưng, nửa thế kỷ của một miền đất, chỉ như một giấc mơ. Chẳng biết có nẻo đường rừng nào, dấu chân tôi lại bước trùng lên nhau? Tôi bước đi trong mơ hay là thực? Gương mặt của một miền quê đang đi lên xây dựng nông thôn mới đã thấp thoáng rạng rỡ nụ cười. Nụ cười đôn hậu, thủy chung của tình đất, tình người. Nụ cười đón tôi ngày trở về mang tên Thượng Nông.

Na Hang, tháng 10/2023

L.N  

Tin tức khác