Hũ vàng

Thứ ba, ngày 27-02-2024, 09:10| 367 lượt xem

Truyện ngắn của Trần Huy Vân

Minh họa của Lê Cù Thuần

 

Từ sau hôm, đi cuốc đám ruộng cửa Chùa về, ông Hạ trúng cảm, mất tiếng không nói thành lời, cổ khàn đặc, bỏng rát. Ông Hạ bưng bát cháo, đưa cho con gái, ý bảo cô ăn. Con gái chối đây đẩy:

- Bố thương con, bố ăn đi cho lại sức. Cô gái múc từng thìa nhỏ bón cho bố. Ông lão húp từng chút một, ngẫm ngợi, nước mắt chảy ra thành dòng, lăn trên hõm má nhăn nheo. Nghĩ thương con gái, hai bận đi lấy chồng không qua được đời con gái. Đời chồng trước, lấy được người tử tế, vợ chồng sống với nhau chưa quen hơi bén tiếng, chồng đi bộ đội, rồi đi miết vào miền trong. Đến năm 1975 chồng người ta về, mình nhận được giấy báo tử. Lấy đời chồng thứ hai, gặp phải quân chẳng ra gì. Rượu, chè, cờ bạc tối ngày, không ngày nào không bị nó đánh tối tăm mặt mũi. Cũng cố nhịn nhục đâu có được. Thằng chồng dính đến trộm cắp, đi tù, chết rũ trong tù. Lại khăn áo về ở với bố. Lại đúng năm đói khát, trả hết nợ sản, nhà cũng sạch bách. May chỉ có hai bố con, rau cháo qua ngày. Đông đàn dài lũ như người ta, không biết sống bằng gì.

Người già những lúc khốn cùng thường hay cả nghĩ. Đời người chẳng mấy khúc vui, cứ suy từ lão ra thì biết. Thuở nhỏ, ông bố đẻ là người có chữ nghĩa, chỉ sau vụ chạy chức Chánh Tổng bị thua phải bỏ làng đi, đến làng Châm này, được ông Bá Hoàn lưu lại dạy cho hai đứa con trai học, và ghi chép người đến cầm cố vay nợ, lão làm đứa ở.

Ông Bá có cô con gái út, tuổi lão. Lão cùng cô chủ, chăn trâu, cắt cỏ, đưa cơm cho thợ cầy, thợ cấy. Lão nhanh trí, cái gì cũng chỉ xem qua một lượt là làm được ngay. Tính nết lại cẩn thận, được ông bà chủ yêu mến, vậy thôi, khi biết cô chủ đem lòng yêu thằng ở. Ông Bá quyết định cho cô chủ lấy chồng chạy tang, con ông Chánh Bảo bên sông. Lão đau xót lắm, biết mình là phận đứa ở cũng nguôi ngoai dần. Cô chủ lấy chồng chưa được năm, chồng chết, đoạn tang lại về với bố mẹ. Những tưởng tình xưa nghĩa cũ được vãn hồi, nào ngờ còn bị khoét sâu hơn. Cô chủ đi lấy chồng lần hai, lấy con ông Bá Tùy vẫn bên sông. Lão lăn đùng ra ốm, trọc lốc như đầu ông Sự, khỏe lại, lão tình nguyện đi dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Bạn gái gặp nhiều, lão không nguôi quên, hình ảnh cô út nhà ông chủ. Hết chiến dịch, lão về làng Châm, gặp cô chủ trên đầu hai vành khăn tang, tang bố, tang chồng. Lão ôm xiết cô chủ vào lòng, thầm thì:

- Đã đến đoạn này rồi, chắc trời cho hai đứa mình thành vợ chồng, mình nghĩ sao? Cô chủ chỉ chờ chàng trai nói vậy. Họ thành vợ chồng.  

Cậu cả, con ông Bá, cho vợ chồng cô út, mảnh vườn đủ để làm căn nhà nhỏ, trồng mấy khóm chuối. Vợ chồng lão đón ông bố về ở cùng. Phát động giảm tô, cải cách ruộng đất, lão được chia ruộng, vào tổ đổi công, lên hợp tác, cứ tưởng cuộc sống khấm khá mãi lên, nào ngờ ngoặt phải, ngoặt trái cái đói cứ nhè vào đám dân cầy mà quần thảo. Vợ lão ốm không có tiền mua thuốc kịp thời, đưa đến viện không cứu được nữa. Lão sống như đã chết vậy.

Chả hiểu sao, mấy ngày nay, dân làng đồn ầm lên, lão cuốc đám ruộng cửa Chùa bắt được hũ vàng. Dân làng đổ xô đến đám ruộng, phiến đá to bằng cái mâm, cũng tròn trịa như thế đã được nậy lên, đất chỗ gầm hòn đá có một vệt lõm hình cái hũ, áng chừng đựng được cân gạo. Đích là hũ vàng. Có người còn nói, mấy năm trước có toán khách lạ dò đến đây hỏi về ngôi chùa cổ, chùa đổ nát từ lâu, chỉ còn nền đất chẳng còn ra hình thù gì nữa. Ai cũng đoán già đoán non, chắc chỗ ấy có vàng nên toán khách lạ mới dò tìm như vậy. Ái cũng tin, ông lão bắt được của lại không tế lễ thần linh, nên các ngài của, mới ốm đau như thế.

Thương bố, mấy lần cô gái muốn hỏi thực hư ra sao. Lần nào đánh thức bố dậy, nhìn đôi mắt già nua, giàn giụa nước mắt, cô lại thôi. Tiếng đồn ông lão bắt được vàng cứ loang ra mãi. Ông Thông Đống một tay bẻm mép cứ nói xưng xưng, không cần úp mở:

- Chẳng có ma quỷ, thánh thần nào ở đây hết. Ông Đồ Kỉ, bố ông Hạ bây giờ, được ông bá Hoàn tin tưởng, ông Bá tích cóp được nhiều vàng bạc, bèn bảo ông Đồ Kỉ mang đi giấu. Ông Đồ Kỉ giấu không cho con trai ông Bá biết mà bảo riêng cho con trai mình là ông Hạ bây giờ. Đến đoạn cơn đen vận túng, ông Hạ lấy lên dùng. Số vàng ấy là mồ hôi nước mắt của cả làng, ông Hạ lấy lên dùng, phải khu xử thế nào không thể chiếm thành của riêng được. Cô gái cứ nghe họ nói chơi chơi thế, cũng thấy nẫu cả ruột, chỉ mong bố chóng khỏi để hỏi cho ra chuyện, nhất là khi cô nhận được công văn của Ủy ban xã “Khi nào ông cụ khỏi bệnh phải mang ngay hũ vàng đến Ủy ban xã khai báo” cô lại càng như ngồi phải tổ kiến lửa.

***

Mấy ngày sau, bệnh ông Hạ thuyên giảm. Ông Hạ bắt đầu nói được. Cô gái lựa lời thăm chuyện. Khi biết rõ đầu đuôi, ông Hạ nói chậm giãi:

- Bố có bắt được cái hũ như thế. - Thực hả bố? - Thực mà!

- Bây giờ bố tính sao?

- Bố tính thế này, ngay mai con đi báo dân làng, các ông trong chính quyền xã đến nhà ta, bố xin trình với dân làng và chính quyền cái hũ vàng ấy, còn họ xử thế nào tùy.

Hôm sau, mới vào đến sân ông Thông Đống đã nói bô bô: Tôi biết ngay mà, thế nào ông Hạ cũng khu xử một cách cao thượng. Được hũ vàng của ông, đủ chống đói cho cả làng đến tận sang năm chứ lại. Ông Thông Đống bước vào nhà hồ hởi:

- Thế nào, khỏe rồi chứ, ông bạn già. Ông Thông Đống sấn đến chỗ ông Hạ đang nằm. Dân làng, ủy ban lục tục kéo đến, có người vì tò mò nghe đồn bắt được hũ vàng nơi này, nơi khác nào ai đã được nhìn thấy tận mắt bao giờ.

Khi dân làng và các vị chức sắc trong chính quyền đến đủ, ông Hạ mới nhỏm dậy, lấy chiếc hũ sành mầu da lươn, vẫn còn nguyên những vết đất lấm để ngay trên bàn thờ, chỗ ai cũng dễ nhìn thấy nhất, xuống. Ông Hạ dơ cái hũ cho mọi người xem, rồi nói:

- Thưa các vị trong chính quyền xã, thưa bà con cái hũ ấy đây. Ông Thông Đống tròn xoe mắt nhìn cái hũ lẩm bẩm: Quái, cái hũ mấy lần đến thăm lão vẫn thấy để tơ hơ ra đấy mà mình không đoán ra nhỉ, lú lẫn thật rồi.

Đợi mọi người nhìn kĩ cái hũ, tiếng xì xèo lắng dần, ông Hạ nói tiếp: Giờ tôi nhờ ông Thông Đống xem kĩ cái hũ, xem còn nguyên vẹn không hay đã được cậy nắp ra rồi. Xem xong nhờ ông cậy nắp, xem trong hũ đựng gì.

Ông Thông Đống trịnh trọng đón lấy cái hũ, ngó đi, xem lại bốn xung quanh, rồi nói: Vết đất vẫn còn nguyên vẹn, nắp chưa được mở. Giờ tôi mở nắp. Ông Thông Đống cậy nắp hũ. Thò tay lấy ra một mảnh giấy được bọc trong miếng vải nhựa, rất cẩn thận.

- Gia phả chỉ chỗ giấu vàng chăng. Có người hỏi. Ông Thông Đống nói thong thả. Bản đồ giấu vàng hay là gì, biết ngay đây. Ông Thông Đống mở túi ni lông, lấy ra tờ giấy.

- Gia phả hay, bản đồ giấu vàng xin nhờ ông Chủ tịch Lương đọc cho tất cả cùng nghe.

Tờ giấy được mở ra trước mặt mọi người. Nó được ghi bằng hai thứ chữ, chữ Hán và chữ Quốc Ngữ, được viết bằng mực Tầu đen nhánh. Ba chữ đầu viết to, tô đậm ai cũng đọc được THẺ NHẬN RUỘNG. Hàng thứ hai ghi tên, tuổi người được nhận, hàng thứ ba ghi sứ đông, diện tích thửa ruộng, hàng thứ tư ghi ngày, tháng, năm được cấp. Chờ ông Lương đọc xong ông Hạ nói:

- Vàng đấy bà con, năm 1955 chính phủ chia cho bố con tôi thửa ruộng này. Cũng sợ sau này có kẻ lấn chiếm, bố tôi đã cho tấm thẻ nhận ruộng vào cái hũ, chôn ở xó ruộng, nếu có ai tranh chấp lấy ra làm bằng chứng.

Trải bao biến đổi, nay tôi được nhận lại thửa ruộng này. Mới đấy, phá bờ cuốc góc tìm thấy cái hũ, thưa bà con tấc đất, tấc vàng, vàng đấy.

Ông lão dồn hết sức để nói, những lời ấy, rồi ho rũ rượi. Mọi người xúm vào đỡ lấy lão. Ông Lão lả ra như tầu lá gặp lửa, nước mắt ứa ra giàn giụa, thoi thóp thở.

T.H.V   

Tin tức khác